một âm mưu xóa bỏ Việt Nam và dân Việt của Bắc Kinh và bầy nhóm Hán nô Hà Nội

Phải có vụ Trung cộng mua được một thửa đất rộng 85 ha tại Bussy Saint-Georges ở ngoại ô Paris để lập một số cơ sở văn hóa của Tàu trong đó có một công viên do tộc Kinh tài trợ cùng với một cơ quan quản trị tộc Kinh, cộng đồng Việt Nam mới ngã ngửa và biết thêm một hành động bán nước khác của tặc quyền cộng sản Hà Nội.  

Xem viđêo mới được tung ra trên mạng, ghi lại buổi họp ngày 21/5/2018 giữa thị trưởng BSG và một phái đoàn dẫn đầu bởi một viên chức tỉnh Quảng Đông, gồm một vài doanh nhân Quảng Đông và một số người Hoa lẫn Việt đại diên cho tộc Kinh trong đó có một phụ nữ được giới thiệu là “công chúa” Kinh (xem https://www.youtube.com/watch?v=Gm7JnvTo4Yo&feature=share)không người Việt Nam chân chính nào có thể giữ được bình tĩnh trước màn kịch kệch cỡm do Trung cộng đạo diễn với vài diễn viên tay sai Tàu và Pháp gốc Việt nhằm khiến thị xã BSG ủng hộ “sự tái sinh của một tổ quốc Kinh” gồm dân tộc Kinh ở “An Nam” và Trung Quốc!

Ở đâu ra tộc Kinh vậy? Tại Việt Nam cũng như Trung Quốc xưa nay làm gì có tộc Kinh nào? Tra khảo ra tôi mới biết rằng cái tên Tộc Kinh đã được cả nhà cầm quyền Bắc Kinh lẫn Hà Nội bịa đặt và áp đặt  khoảng 20 năm gần đây thôi, tức khoảng sau hiệp ước bán nước Thành Đô.

Tại Việt Nam ai có học một chút cũng biết chữ Kinh có nghĩa là kinh đô, nơi vua trú ngu. Cho nên người Kinh nguyên là từ chỉ những người sống ở gần kinh đô, đến đầu nhà Nguyễn nghĩa của từ này được nới rộng cho chỉ tất cả những người Việt sống ờ đồng bằng hay miền xuôi, bất kể nguồn gốc của họ (có thể là gốc tộc Việt xưa, tộc Mường bản xứ, gốc Chàm, gốc Chân Lạp, gốc Trung Hoa, gốc Mã Lai vv.) để phân biệt họ với người Thượng là những người sống ở vùng núi và cao nguyên, thường là những người thuộc các tộc thiểu số. Bởi Việt Nam, do địa lý, là nơi qua lại rồi sinh sống của những người thuộc chủng tộc khác nhau, dân Việt Nam có trong huyết quản máu của nhiều tộc, chẳng thuộc riêng tộc nào. Nhưng dân Việt vẫn tự nhận mình là con cháu của hai tộc Âu Việt và Lạc Việt thuộc nhóm Bách Việt, xuất phát từ vùng đất hiện là miền Nam Trung Hoa, vì hai tộc ấy đã sáng lập ra nước Việt, đã truyền cho hậu duệ cái tinh thần bất khuất giúp nước Việt tồn tại tới bây giờ.  

Bảo người Kinh là người Việt thuộc tộc Kinh, và ép dân Việt Nam phải khai mình thuộc tộc Kinh trên tờ khai lý lịch hoàn toàn là bố láo và vô lý. Đúng hơn là có lý nhưng một cái lý hết sức khốn nạn : Tuân thủ lệnh của Bắc Kinh. Việt Nam phải theo Trung Quốc áp dụng chính sách phân biệt các tộc (Dân Trung Quốc gồm 56 tộc thì Việt Nam gồm 54 tộc). Cũng theo Trung Quốc gồm vào tộc Hán đa số dân Tàu thuộc rất nhiều tộc bị Hán hóa, Việt Nam dồn đa số dân Việt vào một tộc gọi là tộc Kinh. Nhưng sao không bắt chước hẳn và quy đa số dân Việt vào tộc nguyên thủy, tức tộc Việt ? Bởi đó là ý muốn của Bắc Kinh, bởi Trung Quốc xưa nay rất dị ứng với cái tên “Việt” của dân ta vì tổ tiên Âu Việt, Lạc Việt của chúng ta là hai tộc duy nhất thuộc nhóm Bách Việt cưỡng lại được sự Hán hóa, và vì trải qua lịch sử, mặc dù bị Trung Quốc đô hộ gần 1 nghìn năm, dân Việt vẫn vươn dậy nổi để rồi cho quân đội Trung Quốc nhiều trận đòn đau đớn. Chính do tự ái bị va chạm mà họ quyết không chịu gọi tên nước ta bằng tên do vua nước ta đặt ra mà chỉ gọi nước ta bằng tên do chúng đặt (Giao Chỉ thời Hán và An Nam thời Đường) và luôn luôn nuôi dã tâm xóa sổ dân ta cũng như thôn tính nước ta. Nay với sự tiếp tay của Đảng cộng sản Việt Nam chúng có cơ thực hiện giấc mơ muôn thuở.

Còn tại Trung Quốc, Kinh là tên  Bắc Kinh đặt ra cho một thiểu số rất nhỏ, khoảng 20.000 người Việt Nam sinh sống ở Tam Đảo (ba đảo nhỏ Vạn Vĩ, Vu Đầu và Sơn Tâm, cách Móng Cái 25 km)  chủ yếu bằng nghề đánh cá. Ba đảo này trước kia thuộc về Việt Nam nhưng bị Pháp nhượng lại cho Trung Quốc nhân lúc phân định biên giới Việt-Trung sau hiệp ước Thiên Tân (1884). Thành thử đang là công dân Việt Nam bỗng bất đắc dĩ toàn dân Tam Đảo trở thành công dân Trung Quốc; vì sự đổi quốc tịch này xảy ra tương đối gần đây, lại do họ tiếp tục sống trong cùng cộng đồng, họ chưa bị Hán hóa hoàn toàn, vẫn giữ được một chút tiếng Việt và một số tập quán Việt. Trải qua lịch sử, cũng có hiện tượng một số dân Việt di cư sang Tàu, nhưng họ chỉ được gọi là người Giao Chỉ hoặc An Nam một thời gian trước khi tan biến vào cộng đồng người Hoa. Nhưng lần này, viện cớ dân Tam Đảo (với thời gian ba đảo đã bị đất bồi biến thành bán đảo) có tập quán riêng biệt, Bắc Kinh xếp họ vào một trong số 56 tộc Trung Hoa dưới tên Jing (chữ tương đương với Kinh). Với tư cách là công dân thuộc một tộc của Tàu, phụ nữ  Jing/Kinh được giới chức Trung cộng đưa dự các cuộc trình diễn y phục truyền thống Trung Quốc với bộ áo dài, để rồi họ tuyên truyền với dân Tàu cũng như thế giới rằng áo dài Việt Nam chỉ là y phục của một tộc Trung Quốc!

Vụ Bussy Saint-Georges cho thấy rõ cái quyết định đổi tên dân Việt thành dân Kinh hay dân thuộc tộc Kinh của đám cầm quyền cộng sản Hà Nội không chỉ là một hành động ngu độn vô lối mà còn chính là  một sự toa rập đê tiện của bầy lũ Hán nô với Trung cộng, nhằm dọn đường cho sự sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Như phái đoàn Trung cộng tuyên bố tại thị sảnh BSG, trong tương lai toàn thể dân tộc Kinh (ở Trung Quốc và Việt Nam mà chúng vẫn gọi là An Nam) sẽ tập hợp lại theo lệnh của tổ quốc (Trung Hoa)!

Nhờ sự phản đối quyết liệt của cộng đồng Việt Nam tại Pháp, thị trưởng BSG đã lùi bước và ngưng việc bán đất cho Tàu. Nhưng âm mưu tước đi căn cước là người Việt của dân ta, biến dân ta thành một tộc lạ hoắc không có lịch sử, vẫn được tặc quyền Hà Nội thực thi. Người dân Việt Nam còn tự trọng cần phải từ chối ghi mình là tộc Kinh trên các tờ lý lịch, mà khẳng định mình là dân Việt, và tự khai thuộc tộc Việt nếu cần. Mất căn cước quốc gia, mất gốc không phải là chuyện nhỏ đâu. Thiếu ý thức quốc gia, thiếu tinh thần dân tộc thì làm sao chúng ta có động lực để ngăn sự mất nước vào tay giặc Tàu?

________________________________________________________

Nhận xét về băng video ghi lại buổi họp ngày 21/5/2018 giữa thị xã Bussy Saint-Georges (ngoại ô Paris, Pháp) và một phái đoàn Trung Quốc – Kinh. (https://www.youtube.com/watch?v=Gm7JnvTo4Yo&feature=share )

 Phái đoàn Trung Quốc -Kinh :

1/ Phía Trung Quốc :

  • Dự án liên quan đặc biệt đến một « tộc Kinh », được đại diện bởi một người tự nhận là « công chúa » Kinh. Tộc Jing/Kinh ở Trung Quốc chỉ gồm khoảng 20.000 người, con cháu của ngư dân Việt tại ba đảo (Tam đảo) gần Móng Cái, bị Pháp nhượng cho Trung Quốc sau hiệp ước Thiên Tân (1884). Mặc dầu họ còn giữ một số phong tục Việt khiến họ khác biệt với các tộc khác ở Trung Quốc, họ đã bị Hán hóa nhiều, ít người còn biết tiếng Việt. Cộng đồng nhỏ bé gồm toàn dân chài nhà nông và con buôn đó có bao giờ họp thành một vương quốc đâu mà có vua với chúa ? Vậy thì cô công chúa không biết nói tiếng Việt này ở đâu ra ? Quá lắm đó là con gái của một người được bầu hoặc bổ làm tộc trưởng.

Tại Việt Nam chỉ con gái của vua được gọi là công chúa ; và hiện còn ba người được công nhận là công chúa Việt Nam, đó là ba bà con gái của cố vua Bảo Đại, đã lớn tuổi lắm rồi. Thành thử giới thiệu một cô Tàu không ai biết đến, chẳng có phong cách gì, như một vị « công chúa An Nam » rõ ràng là một hành vi lừa đảo.

  • Tộc Jing/Kinh sống tại Quảng Tây nhưng người trưởng phái đoàn lại đại diện cho Quảng Đông/Châu. Điều này chỉ có thể hiểu được nếu biết rằng trong mưu đồ sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc, Bắc Kinh tính biến Việt Nam thành một tỉnh dưới sự quản trị của tỉnh trưởng Quảng Đông/Châu, là kẻ như vậy sẽ có toàn quyền trên mọi người thuộc tộc Kinh (gồm toàn dân Việt bị tặc quyền Hà Nội đã biến thành dân tộc Kinh).
  • Bà Tàu cư xử như phát ngôn viên của phái đoàn Trung Quốc – Kinh, nhờ sự biết nói ba tiếng Hoa- Pháp – Việt, thật ra là một người Tàu Chợ Lớn sống tại Pháp. Tuy biết nói ba tiếng, bà ta không thạo tiếng nào nên dịch và giải thích lệch lạc.

2/ Phía người Kinh ở Pháp :

  • Đây là người Pháp gốc Việt, xuất thân từ Việt Nam, môt nước khác biệt với
  • Trung Quốc. Họ chỉ đại diện cho chính họ, không một tổ chức hay hội đoàn có máu mặt nào đã được thông báo về buổi họp và đã phái họ đến.
  • Khi tới họp, họ mặc nhiên tự nhận thuộc cái tộc Kinh do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam bịa ra, và phục vụ cho tặc quyền Hà Nội cũng như quan thầy Trung cộng, chống lại dân Việt, nguyên là đồng bào của họ.
  • Nhân cách của sư ông gốc Việt đứng ra làm trung gian giữa thị xã BSG và quan chức Tàu đáng đặt vấn đề. Bộ áo cà sa không làm ra sư : không giống như đạo công giáo, đạo Phật không có tổ chức chặt chẽ lo việc đào tạo, bổ nhiệm và kiểm soát sư sãi, ai khoác áo cà sa và cạo trọc đầu cũng có thể tự nhận là sư, nhưng muốn được coi là nhà sư chân chính phải đi tu và sống một cuộc đời được công nhận là gương mẫu khổ hạnh. Một nhà sư tử tế không thể hành nghề môi giới nhất là cổ xúy cho một dự án chính trị ngoắt ngoéo. Các phát biểu mập mờ về tộc Kinh và sự vào hùa theo người Tàu của sư ông trong video xếp ông ta vào loại kẻ cơ hội và phản bội quê hương.

Dự án

1/ Nơi đây chỉ bàn về những điều liên quan đến Việt Nam, dù cho có nhiều nghi vấn trong những lời hứa hẹn của phía Trung cộng về số việc làm (tới 100.000 !) và tiếng tăm do dự án mang lại.

2/ Điều nổi nhất trong dự án là một « Công viên hòa bình của các dân tộc và quốc gia trên thế giới », một cái tên rất kêu nhưng cũng rất gian dối vì dự án này không những không đề xướng hòa bình mà là một âm mưu gây hấn với dân tộc Việt Nam, có tác dụng làm bàn đạp cho việc nước Pháp công nhận sự sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc.

3/ Công viên sẽ được tài trợ bởi tộc Kinh. Tộc Kinh nào đây? Cộng đồng thuần nhất cùng một văn hóa và nguồn gốc có tên là tộc Kinh là tộc Jing/kinh ở Trung Quốc : đó là một cộng đồng khoảng 20.000 nhà nông, dân chài và con buôn bình thường, vậy thì làm sao có tiền để tài trợ dự án ? Còn dân Việt mà cặp Bắc Kinh – Hà Nội muốn biến thành tộc Kinh, hầu hết (không hoàn toàn tất cả vì bao giờ cũng có một thành phần Việt gian và phản quốc) họ bác bỏ cái tên ấy vì nó không dựa trên một thực tế nào, và do đó họ sẽ không bao giờ tham gia vào một mưu đồ chống lại căn cước của họ. Thật ra đằng sau tộc Kinh hiển hiện bóng dáng của nhà cầm quyền Bắc Kinh thông qua tỉnh Quảng Đông/Châu với các nhà tư bản đỏ trong tỉnh.

3/ Trong dự án còn có một cơ quan văn hóa giáo dục lo việc quản trị tộc Kinh. Chuyện chi kỳ quặc vậy? Quản trị một dân tộc là việc của chính phủ. Người Hoa tính lập một chính phủ chính thức tại Pháp mà nhà chức trách không có phản ứng gì ư ? Mà tộc Kinh sẽ được quản trị ở Pháp là tộc Kinh nào khi tộc Jing/Kinh sống ở Trung Quốc ? Chỉ còn dân Việt mà Trung cộng muốn đồng hóa với tộc Kinh nghịch lại với mọi sự thể, dầu cho có sự đồng lõa đê hèn của tặc quyền Hà Nội. Ai dám tự phong cho mình quyền quản trị họ ? Những nhà tài trợ dự án tức người Hoa ? Tại Việt Nam dân Việt đã có chính phủ rồi. Những kẻ lập ra dự án chắc nhắm vào những người Việt cư ngụ ở nước ngoài, đặc biệt ở Pháp. Nhưng đại đa số những người này đã nhập quốc tịch nước sở tại. Phải chăng Trung cộng đòi quản trị công dân Pháp, giả định họ bằng lòng ?

Buổi họp :

1/ 15.25 – Theo sư ông, buổi họp “biểu dương sự tái sinh của tộc Kinh”. Cụm từ này đưa ra hai điều trái sự thật đồng thời biểu lộ trắng trợn ý đồ đen tối của Bắc Kinh:

  • Muốn một dân tộc tái sinh, trước tiên dân tộc đó phải đã hiện hữu và đã trên đường suy vong. Thế nhưng tộc Kinh duy nhất hiện hữu là cộng đồng Jing/Kinh đang phát đại tại Trung Quốc. Mà ngay cái tộc Kinh ấy cũng chỉ là một tộc dựng lên bởi Bắc Kinh để chỉ cộng đồng người Việt định cư tại Tam Đảo (ba đảo cách Móng Cái 25km) bỗng trở thành công dân Tàu khi thực dân Pháp nhượng đất của họ cho Triều đình Mãn Thanh tiếp theo hiệp ước Thiên Tân (1884). Nhóm người thiểu số này đáng nhẽ ra phải được goi là tộc Việt vì họ là dân Việt, nhưng cái từ Việt là một từ kiêng kỵ đối với giới cầm quyền Trung Hoa bởi nó gợi ra cho họ nhiều vụ thua trận nhục nhã do dân Việt bắt quân đội thiên triều phải chịu.    
  • Khi phía Trung cộng nói về đức tính và số đông của tộc Kinh, họ thực ra nói về người Việt Nam, nhưng họ không bao giờ gọi người Việt là dân Việt, và cũng không hề nhắc tới nước Việt Nam. Họ lợi dụng sự thể nhà cầm quyền Hà Nội phục tùng Bắc Kinh, đã phỏng theo Trung cộng áp dụng từ sau 1990 một chính sách phân chia dân chúng theo tộc, và đã áp đặt một tộc Kinh bịa đặt cho dân Việt. Quyết định này của Hà Nội không thay đổi sự thật theo đó trải qua lịch sử không có tộc nào tên là Kinh tại Việt Nam, chỉ có tộc Việt hay Lạc Việt mà dân Việt Nam tự cho mình là hậu duệ. Một tộc rất năng động, không cần phải tái sinh, trừ phi Trung cộng thành công trong việc diệt chủng dân ta như chúng mưu toan.
  • Tại sao lại muốn một tộc không thực sự hiện hữu tái sinh? Mục đích của Bắc Kinh phải chăng chính là cho ra đời một cái không hề có (tộc Kinh) để xóa bỏ cái đã từng có (tộc Việt)

2/ 15.26–: Sư ông dựa vào uy tín của Unesco để bênh vực cho lời lẽ của ông ta. Nhưng Unesco nói hay làm gì chính xác thì ông ta không cho biết.

  • Về « tộc Kinh” ở Việt Nam, phải biết rằng Unesco không có tư cách chuẩn y hay không sự đổi tên của một nước hay một dân tộc khi đó là quyết định của nhà cầm quyền của chính nước hay dân ấy, Unesco không bàn về tính đúng đắn hay không của sự đổi tên, chỉ biết ghi nhận, như trong trường hợp nước Dahomey trở thành nước Bénin. Tuy nhiên, để chỉ người dân Việt Nam, không một cơ quan quốc tế nào gọi họ là dân Kinh mà là dân Việt.   
  • Unesco có nhiệm vụ cổ vũ cho hòa bình nên nếu được hỏi ý kiến về “Công viên hòa bình của các dân tộc và quốc gia trên thế giới”, chắc hẳn thoạt đầu cơ quan quốc tế này sẽ tán thành dự án ; nhưng đảm bảo, nếu phát giác ra mục tiêu lừa bịp và ẩn ý chính trị của Trung Quốc, Unesco sẽ tránh xa dự án , nếu không tố cáo nó.

3/ 16.21 –: Dự án bao gồm một tòa nhà dành cho việc “nghiên cứu và quản trị tộc Kinh” :

  • Tộc Kinh/Jing Trung Quốc chỉ có khoảng 20.000 người, đã là đề tài của nhiều cuộc điều tra tìm hiểu ; vả lại muốn nghiên cứu về họ phải đến nơi họ cư ngụ bên Tàu chứ sao lại ngồi ở Pháp? Về dân Việt, bị Trung cộng và Việt cộng đồng hóa với tộc Kinh, họ đã là đối tượng nghiên cứu của nhiều cơ quan văn hóa khắp nơi trên thế giới, đặc biệt tại Pháp, nên không cần đặt thêm cơ quan tại đây để làm việc đó, nhất là khi cơ quan này có mục tiêu lừa đảo dối trá.    
  • Quản trị một dân tộc là việc của chính phủ. Khi chấp nhận trên lãnh thổ của mình một thửa đất dành cho việc quản trị này, nước Pháp thừa nhận sự sáng lập một Nhà nước trong Nhà nước, một tô giới kiểu Hồng Kông xưa. Làm sao một đề nghị ngông cuồng như vậy lại được thông qua mà không có phản ứng gì của thị xă?
  • Ngoài ra người ta muốn quản trị dân nào đây? Dân Kinh/jing sống ở Quảng Tây bên Tàu, dưới sự cai trị vủa Bắc Kinh qua trung gian quan chức tỉnh. Đâu cần quản trị họ tại Pháp xa chỗ cư ngụ của họ? Người ta nhắm dân Việt (bị đồng hóa một cách vô lý với tộc Kinh) chăng? Nhưng họ đã có nước Việt Nam để bận tâm đến họ và các tòa lãnh sự Việt Nam để lo về họ nếu họ ra nước ngoài trú ngụ. Nếu họ đã nhập quốc tịch của nước sở tại thì họ trực thuộc nhà chức trách của nước này . Thế thì dự án lạ đời này che giấu gì ?

4/  19.30 –: Sự trao ba “cờ hiệu” :

  • Thoạt tiên, phải nói rằng các tộc ở Trung Quốc không có quyền trưng cờ riêng, biểu tượng cho cộng đồng họ. Cứ xem dân Tây Tạng hay Duy Ngô Nhĩ bị đàn áp ra sao khi họ muốn giăng cờ hiệu của dân họ. Cho nên gọi mấy tấm biển thêu là cờ hiệu của tộc Kinh là nói dốc.
  • Mấy tấm biển được gọi là cờ không tượng trưng cho gì cả, đó chỉ là những tấm vải trên đó được ghi một số chữ Tàu chỉ dẫn, như ở đây trên ba tấm : “Kinh tộc lịch đại tổ tông” (tổ tiên qua các đời của tộc Kinh) ; theo câu này thì đây là những tấm biểu ngữ được giăng cạnh bàn thờ tổ, hay đúng hơn vì Trung cộng cấm sự thờ phụng, trong những buổi lễ dân gian hướng về tổ tiên. Mà tổ tiên của người Kinh/Jing xuất phát từ Việt Nam. Nếu họ muốn ngược dòng thời gian xa hơn, thì họ nên tưởng nhớ đến tộc Việt cổ, không để lại gì ở Trung Quốc nhưng có dấu vết được gìn giữ trong huyền sử Việt Nam. Thành thử nếu dân Kinh/Jing muốn tôn vinh tổ tiên họ, họ phải sang Việt Nam xây đền đài chứ không đến Pháp lập trụ sở!
  • Cái câu chữ nhỏ bên trái tấm biển được giải thích là “biểu tượng của những quyền lực cao nhất tại Trung Quốc và trên thế giới”! Đúng là bố láo! Những câu bên lề một tấm biển trang trí không có tính biểu tượng nào, mà chỉ cho biết một bên (phải, đối với người đọc) tên/chức của cá nhân hay pháp nhân nhận tấm biển, bên kia (trái) tên/chức của cá nhân hay pháp nhân tặng tấm biển. Ví như trong tấm biển đầu, lề phải ghi thị xã BSG là bên nhận tấm biển, lề trái ghi người tặng là phường trưởng tộc Kinh/Jing, tức viên chức quản trị số khoảng 20.000 người Kinh/Jing ở Trung Quốc, một công chức thường chứ đâu phải là một nhân vật ngang với giáo hoàng như bà phát ngôn viên ca tụng.

5/  29.20 — : Sự trao bốn “cờ hiệu” sau :

  • Mỗi tấm biển sau có một chữ lớn, gôm lại theo thứ tự trình làng là : “tổ quốc lệnh Kinh”, một câu khá mập mờ.
  • Hai chữ tổ quốc nguyên nghĩa là nước của tổ tiên. Vậy thì tổ quốc trong mấy tấm biển này chỉ nước nào? Ở đây ta thấy sự gian lận và giả dối của các tác gia dự án. Theo nguyên nghĩa của hai chữ, tổ quốc đây phải là Việt Nam, nơi yên nghỉ của tổ tiên xa xưa của dân Kinh/Jing. Nếu họ chỉ tính đến tổ tiên gần, tổ quốc của họ là Trung Quốc. Nhưng phát ngôn viên của phái đoàn nhắc tới một tổ quốc tương lai. Thế là gì vậy? Bà ta mơ biến nước Pháp thành xứ của tộc Kinh chăng khi bà ta nói “gửi cờ hiệu của tộc Kinh” cho một thị xã Pháp giữ, đặc biệt trao chữ “quốc” cho thị trưởng giương lên.
  • Sư ông sánh sự thành lập một tổ quốc Kinh như sự thành lập nước Do Thái (Israel). Ông ta quên rằng người Do Thái trước đó không có quốc gia, trong khi người Việt (mà cặp Bắc Kinh- Hà Nội đồng hóa với tộc Kinh) đã có Việt Nam là tổ quốc, một đất nước đủ rộng để đón tiếp toàn dân Kinh/Jing nếu họ muốn trở về đất tổ. Thế thì tại sao lại muốn lập một tổ quốc mới? Cho ai và ở đâu?
  • Bà phát ngôn viên cũng như sư ông khoe tộc Kinh có 3 triệu người sống khắp thế giới và đưa Liên Hiệp Quốc ra làm nhân chứng. Thật ra, mấy triệu người đó là người Việt tị nạn cộng sản sau 1975, đặc biệt là những thuyền nhân bỏ xứ vào thập niên 1980. Tổ chức quốc tế về di dân của LHQ có ghi sổ họ nhưng vẫn gọi họ là người Việt chứ chẳng bao giờ là người Kinh (tên bịa đặt được áp đặt sau này bởi Trung cộng và Việt cộng). Với con cháu họ cộng với những người di tản sang nước ngoài vì miếng cơm manh áo, trong đó phần lớn là những kẻ ra đi theo đường “xuất khẩu lao động”, cộng đồng dân Việt ở nước ngoài hiện có khoảng 4,5 triệu người (1,8 triệu ở Hoa Kỳ và 300.000 ở Pháp). Phần lớn đã nhập quốc tịch của nước sử tại; họ vẫn lưu luyến Việt Nam và tự nhận mình là gốc Việt, chẳng bao giờ là gốc Kinh. Gán cho họ cái từ Kinh là ngu xuẩn hay cố ý thóa mạ. Ngay đám tặc quyền Hà Nội cũng vẫn phải dùng chữ dân Việt, chỉ lồng từ Kinh vào một só bản văn hành chính.
  • Khi tuyên bố rằng “ 27 quốc gia trên thế giới gởi tới với người Kinh” bà phát ngôn viên nói lung tung chẳng có nghĩa gì. Còn sư ông dịch ra tiếng pháp cũng không kém ba láp: “27 quốc gia có dân Kinh đến chắp lại với chúng tôi ở đây”. Ý khoác lác của họ là dân Kinh ở 27 quốc gia cùng chí hướng với họ. Khỏi nhắc lại, chằng có dân Kinh nào sống ở ngoài Trung Quốc, chỉ có dân Việt thôi mà trừ một thành phần nhỏ Hán nô họ chẳng bao giờ nhận mình là dân Kinh, huống chi toa rập với Trung cộng ủng hộ cái dự án quái đản này.
  • Khi bàn về tấm biển thứ sáu với chữ “lệnh”, bà Tàu phát ngôn viên xuyên tạc lịch sử Việt Nam và tỏ ra hỗn xược với nước Việt Nam : bà ta ca tụng chí bất khuất của tộc Kinh, luôn luôn đồng hành với Trung Quốc, mà không bảo đó là dân Việt, không phải đồng hành mà luôn luôn đối nghịch với Trung Quốc ; bà ta làm như đất của người Kinh/Việt thuộc về Tàu, mãi đến thời Pháp thuộc sau hiệp ước Pháp-Hoa Thiên Tân (1884) mới tách khỏi thiên triều (trong khi từ 1428 cho tới tận bây giờ hay đúng hơn tới 1975 đất nước ta hoàn toàn hết lệ thuộc Tàu) và chỉ gọi Việt Nam là Giao Chỉ và An Nam (hai tên do Tàu đặt ra thời nhà Hán và nhà Đường). Thực ra trong 3000-4000 ngàn năm hiện hữu, Việt Nam từng bị Trung Quốc đô hộ nhiều lần, cộng lại thành gần 1000 năm, rồi đến Pháp đô hộ gần 100 năm, nhưng ý chí quật cường của dân Việt đã giúp ta cưỡng lại sự Hán hóa để mỗi lần giành lại độc lập.
  • Lệnh của tổ quốc, theo phát ngôn viên, là “lệnh cho tộc Kinh tập họp tại BSG” (bằng cách nào?), trong khi chờ đợi có một tổ quốc(?) để phát triển dân tộc (?). Lại thêm một câu phi lý. Cái tổ quốc ra lệnh đó là tổ quốc nào khi tộc Kinh chưa có tổ quốc? Vì người Kinh/Jing là công dân Trung Quốc, tổ quốc của họ là Trung Quốc (đứng ra tài trợ cho dự án), lệnh của tổ quốc họ đương nhiên phải là lệnh của Trung Quốc. Và Trung Quốc, bằng cách khiến mọi người tưởng dân Việt nguyên thuộc tộc Kinh, bà con với tộc Kinh/Jing bên Tàu, có mưu đồ tập họp tất cả những ngươi gọi là dân Kinh trên một nước Kinh tưởng tượng sẽ được cụ thể hóa vào năm 2020 (theo mật ước Thành Đô) nhờ vào sự tan hòa nước Việt Nam vào một tỉnh tự trị bao gồm cộng đồng Kinh/Jing, đặt dưới sự thống trị của Bắc Kinh trước khi được thực sự sáp nhập vào Trung Quốc 20 năm sau. Khỏi phải nói, một chính phủ Việt Nam không qui phục Tàu như tập đoàn cộng sản Hà Nội có thể viện cớ quật lại rằng tộc Kinh/Jing có nguồn gốc Việt, nếu phải tập họp mọi dân Việt thì việc đó phải do Việt Nam thực hiện bằng cách sát nhập một phần Quảng Tây vào Việt Nam.
  • Trong lời phát biểu của cô “công chúa “lúc trình làng tấm biển thứ 7, có câu đáng kể là “chúng tôi hy vọng có một chính phủ nay mai”. Cô ta muốn nói gì vậy? Tộc Kinh/Jing mà cô đại diện cho chỉ là một nhóm rất nhỏ người (so với 1,5 tỷ dân Trung Hoa) đã có chính phủ tại Bắc Kinh. Cô muốn cộng đồng nhỏ bé của cô ly khai Trung Quốc chăng? Hay đúng hơn khi tự nhân là con vua Kinh, cô mơ ước đại diện cho một tộc Kinh mở rộng bao gồm 85% dân Việt Nam và tính trị vì trên cả nước Việt Nam với sự hỗ trợ của Trung Quốc?

6/  43.25  : Diễn văn của trưởng phái đoàn Trung cộng :

  • Người đại diện cho tỉnh Quảng Châu/Đông này nhắc lại những lời xuyên tạc lịch sử Việt Nam của phát ngôn viên, và kết thúc với lời mong muốn dân Kinh “đồng hành với Quảng Châu/Đông trong trong cuộc phát triển của họ”. Câu mơ hồ này thật sự hé lộ số phận của Việt Nam sau khi bị thôn tính : bị sáp nhập vào tỉnh Quảng Châu/Đông. Vả lại chính tỉnh này, thông qua tài phiệt của mình, chứ không phải tỉnh Quảng Tây nới sinh sống của dân Kinh/Jing, đứng lên tài trợ cho dự án BSG. Tại sao Quảng Châu/Đông thay vì Quảng Tây? Tại sự giao thông giữa Quảng Châu/Đông và Việt Nam dễ dàng hơn.

Tóm lại, toàn dự án là một màn kịch có mục đích ấn vào trí não của người Pháp và toàn dân thế giới ý nghĩ về một tộc Kinh tưởng tượng, đồng hóa dân Việt với tộc Kinh để rồi xóa từ Việt và Việt Nam khỏi ngữ vựng của các nước, sau đó để cho mọi người tưởng rằng dân Kinh ở Việt Nam chỉ là một tộc Tàu bị nhất thời tách rời khỏi đất mẹ Trung Hoa, và sau cùng để khiến quốc tế (đặc biệt nước Pháp thành đồng lõa với sự chấp thuận dự án BSG) không phản đối mà chấp nhận sự sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc với danh nghĩa sự quay về đất tổ của tộc Kinh.